Kỷ niệm 55 năm Tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia

Việt Nam và Cam-pu-chia là hai nước láng giềng, cùng nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc vùng hạ lưu sông Mê Công, đều có nguồn gốc nền văn minh nông nghiệp lúa nước với lịch sử lâu đời ở khu vực Đông Nam Á. Với nhiều điểm tương đồng, hai nước luôn gần gũi, gắn bó, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.Trải qua những thăng trầm của lịch sử, quan hệ Việt Nam - Campuchia đã được thử thách, tôi luyện và phát triển ngày càng sâu rộng, thiết thực và hiệu quả trên các lĩnh vực, trở thành tài sản chung quý báu của hai quốc gia và hai dân tộc cùng nằm trong khối ASEAN.

1. Lịch sử

Ngày 24-6-1967, quan hệ ngoại giao giữa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Vương quốc Cam-pu-chia chính thức được thiết lập, nhưng sự gắn bó, đoàn kết, hữu nghị giữa hai bên đã được hun đúc từ những năm tháng cùng chung sức, đồng lòng đánh đuổi thực dân Pháp. Chỉ thị kháng chiến kiến quốc vào ngày 25-11-1945 của Đảng Cộng sản Đông Dương đã đề ra chủ trương thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược (1). Tháng 3-1951, tại Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Đông Dương, khối liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia cũng được thành lập dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của mỗi nước. Sự ra đời của khối liên minh chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia mang ý nghĩa chính trị đặc biệt, không chỉ gắn kết, tập hợp ba nước Đông Dương vào chung một mặt trận thống nhất, mà còn là biểu tượng của sự thắng lợi trước chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp. Mối quan hệ đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nước nói chung, giữa Việt Nam và Cam-pu-chia nói riêng đã tạo ra những điều kiện căn bản, đồng thời là nhân tố bảo đảm và thúc đẩy cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc của mỗi nước đi đến thắng lợi.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền, tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh chung để bảo vệ hòa bình và độc lập dân tộc ở Đông Dương... Chúng ta thành tâm mong rằng quan hệ hữu nghị giữa nước ta và các nước láng giềng, trước hết là Campuchia và Lào, được xây dựng và phát triển tốt” (2). Điều này cho thấy, mong muốn của Việt Nam trong việc củng cố tình đoàn kết, hữu nghị vốn có với Cam-pu-chia, giành được sự ủng hộ của nhân dân và các lực lượng tiến bộ ở Cam-pu-chia đối với cuộc kháng chiến thống nhất đất nước. Về phía Cam-pu-chia, chính quyền Cam-pu-chia do Hoàng thân Nô-rô-đôm Xi-ha-núc làm Quốc trưởng đã tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính quyền Sài Gòn vào năm 1963, công khai lên án hành động xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ và tổ chức Hội nghị Nhân dân các dân tộc Đông Dương tại Thủ đô Phnôm Pênh (Cam-pu-chia) vào năm 1965, thông qua “Nghị quyết về vấn đề Việt Nam” khẳng định tình đoàn kết của nhân dân Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Ngoài sự ủng hộ về chính trị, Cam-pu-chia còn tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Khi Cam-pu-chia rơi vào khó khăn sau cuộc đảo chính tháng 3-1970 của Lon Nol, quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục sát cánh cùng nhân dân Cam-pu-chia, giúp Cam-pu-chia chuyển hướng đấu tranh từ mục tiêu hòa bình, độc lập, trung lập, dân chủ, dân sinh sang đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị chống Chiến lược Khơ-me hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, lực lượng kháng chiến Cam-pu-chia từng bước được xây dựng và trưởng thành, tích cực phối hợp với quân giải phóng miền Nam Việt Nam và quân đội Pha-thét Lào thực hiện liên minh đặc biệt chiến đấu đánh bại các kế hoạch chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở Đông Dương, làm nên chiến thắng lịch sử của nhân dân Việt Nam và Cam-pu-chia vào mùa Xuân năm 1975.

“Kề vai sát cánh” lật đổ chế độ diệt chủng Khơ-me Đỏ, tái sinh đất nước Cam-pu-chia. Khi cả hai đất nước hoàn toàn được giải phóng khỏi chế độ thực dân, đế quốc, Cam-pu-chia lại rơi vào thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước này khi phải đối mặt với nguy cơ bị diệt chủng bởi chế độ Pôn Pốt - Iêng Xa-ry - Khiêu Xam-phon. Sự tàn bạo của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xa-ry - Khiêu Xam-phon đối với nhân dân Cam-pu-chia cũng như những cuộc tấn công quy mô lớn, liên tục của lực lượng quân đội “Cam-pu-chia Dân chủ” vào các tỉnh biên giới của Việt Nam, giết hại nhiều người dân Việt Nam, một lần nữa đã khơi dậy tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng của nhân dân hai nước cùng chống lại chế độ diệt chủng hết sức man rợ.

Thực hiện quyền tự vệ trước những hành động xâm lược với chính sách “giết sạch, cướp sạch, phá sạch” vô cùng dã man, tàn bạo của bè lũ Pôn Pốt đối với nhân dân Việt Nam và đáp lại lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã cùng với những chiến sĩ cách mạng chân chính và nhân dân Cam-pu-chia tiến hành cuộc cách mạng ngày 7-1-1979, lật đổ chế độ diệt chủng “Cam-pu-chia Dân chủ”. Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Cam-pu-chia trong cuộc chiến này được đánh đổi bằng xương máu của biết bao chiến sĩ quân tình nguyện và là biểu tượng của tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, chí nghĩa, chí tình giữa hai dân tộc láng giềng anh em.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân Cam-pu-chia, từ năm 1979 đến năm 1989, hàng vạn quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã ở lại Cam-pu-chia chung sức với cán bộ và nhân dân Cam-pu-chia nhằm ngăn chặn nạn đói đang hoành hành khắp nơi và trực tiếp cùng với Chính phủ, quân đội và nhân dân Cam-pu-chia khắc phục những hậu quả sau chế độ diệt chủng, từng bước thực hiện công cuộc hồi sinh dân tộc, xây dựng lại đất nước, tạo thế nương tựa, hỗ trợ lẫn nhau để đối phó với sự bao vây, cấm vận và tiến công quân sự, ngoại giao của các thế lực thù địch, phản động.

Tháng 9-1989, khi Cam-pu-chia đủ sức tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước, quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã lên đường về nước. Trong buổi gặp gỡ chuyên gia Việt Nam chuẩn bị về nước, ngày 7-1-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia Hiêng Xom-rin (nay là Chủ tịch danh dự Đảng Nhân dân Cam-pu-chia, Chủ tịch Quốc hội Vương quốc Cam- pu-chia) đã khẳng định: “Tổ quốc và nhân dân Cam-pu-chia đã khắc sâu vào trái tim mình, lịch sử đất nước Cam-pu-chia sẽ mãi mãi khắc bằng chữ vàng công ơn to lớn của các đồng chí chuyên gia, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nghĩa vụ quốc tế cao cả trên đất nước Cam-pu-chia”. Chiến thắng ngày 7-1-1979 là một thắng lợi vĩ đại, sáng ngời chính nghĩa trong thế kỷ XX; là nền móng, là niềm tin để mối quan hệ hợp tác và hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia không ngừng phát triển. Ngày 7-1-1979 mãi mãi là một mốc son trong lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia.

(trích theoLÊ THỊ THÚY HIỀN, Viện Chiến lược công an, Bộ Công an)

2. Những thành quả quan trọng trong quan hệ giữa hai nước.

Quan hệ chính trị không ngừng phát triển và đã thực sự đóng vai trò nòng cốt định hướng trong tổng thể quan hệ hai nước. Hai bên luôn nhấn mạnh tầm quan trọng và quyết tâm củng cố quan hệ hợp tác truyền thống giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia, trong đó quan hệ chính trị - ngoại giao giữ vai trò nòng cốt. Hằng năm, lãnh đạo cấp cao hai nước đều có các cuộc gặp gỡ, trao đổi dưới nhiều hình thức và đã đạt được nhiều thỏa thuận chiến lược, vừa định hướng cho tổng thể quan hệ, vừa kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm thúc đẩy sự hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

Trong các chuyến thăm chính thức lẫn nhau, lãnh đạo hai nước luôn khẳng định tôn trọng và thực hiện đầy đủ các hiệp ước, hiệp định, thỏa thuận mà hai bên đã ký kết, trong đó có hiệp định, thỏa thuận liên quan đến hoạch định biên giới. Đặc biệt, Cố Quốc vương Norodom Sihanouk trước đây, Quốc vương Norodom Sihamoni sau này, cũng như Thủ tướng Hun Sen và các vị lãnh đạo khác của Campuchia luôn luôn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh to lớn mà Việt Nam đã dành cho Campuchia và mong muốn “mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”. Lãnh đạo Việt Nam cũng thường khẳng định: “Vận mệnh của hai dân tộc là không thể tách rời nhau, đó là một chân lý từ thực tiễn lịch sử của hai nước”. Năm 2005, lãnh đạo hai nước đã thống nhất xác định khuôn khổ quan hệ Việt Nam – Campuchia là quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” và từ đó đến nay lãnh đạo và nhân hai nước luôn không ngừng phấn đấu vun đắp quan hệ giữa hai nước theo phương châm đó.

Trong hai năm 2020 và 2021, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, hai bên đều phải căng mình đối phó và ngăn chặn đại dịch, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước, các bộ, ban, ngành, địa phương và các tổ chức nhân dân đã thường xuyên có các cuộc điện đàm thăm hỏi, chia sẻ và động viên lẫn nhau. Hai bên cùng thể hiện quyết tâm phối hợp chặt chẽ trong phòng, chống dịch bệnh, kịp thời giải quyết mọi khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho nhau, ủng hộ và hỗ trợ lẫn nhau một cách kịp thời cả về tài chính, trang thiết bị, vật tư y tế và vaccine để phòng, chống dịch.

Hợp tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả, là trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước. Hai bên phối hợp giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và phát triển ở mỗi nước, tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác 5 năm, cũng như kế hoạch hợp tác hằng năm giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an Việt Nam với Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ Campuchia; hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, ngăn chặn và vô hiệu hóa các hoạt động của các lực lượng thù địch chống phá Việt Nam, Campuchia và quan hệ hai nước; tăng cường phối hợp tuần tra chung, giữ vững an ninh, trật tự, cứu hộ, cứu nạn ở khu vực biên giới trên bộ và trên biển; tổ chức giao lưu kết nghĩa, duy trì đường dây nóng, phối hợp đấu tranh chống các loại tội phạm xuyên quốc gia, các hoạt động xâm canh, xâm cư, vượt biên trái phép, giải quyết các vấn đề nảy sinh, xây dựng củng cố, quản lý đường biên giới, vành đai an ninh, hòa bình, ổn định, giữ vững chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn khu vực biên giới; tiếp tục tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Campuchia; trùng tu, tôn tạo các Đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia.

Việt Nam và Cam-pu-chia cũng đã đạt được những thành quả quan trọng về vấn đề phân giới, cắm mốc biên giới, trong đó nổi bật là nhân kỷ niệm 45 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ Khánh thành cột mốc 314, cột mốc có số thứ tự cuối cùng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia. Tháng 10-2019, hai bên đã ký kết Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư ghi nhận thành quả phân giới, cắm mốc 84% biên giới trên bộ và tổ chức trao nhận bản đồ địa hình biên giới. Việc ký kết hai văn kiện pháp lý này có ý nghĩa to lớn, đặt nền tảng để hai bên duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới.Với sự quyết tâm và nỗ lực của cả hai bên, Việt Nam và Campuchia đã hoàn thành 84% khối lượng công việc phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền, tháng 10/2019, hai bên đã ký kết Hiệp ước bổ sung năm 2019 và Nghị định thư ghi nhận thành quả này và sau đó Quốc hội hai nước đã phê chuẩn 2 văn kiện pháp lý quan trọng nói trên, tạo nền tảng để hai bên duy trì ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực biên giới. Thời gian qua, hai bên cũng đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động đối ngoại, thực hiện tham vấn chính trị, chia sẻ thông tin kịp thời và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ hợp tác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Liên hợp quốc và các cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mê Công. Có thể nói hợp tác an ninh, quốc phòng và đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, an ninh, ổn định cho sự phát triển của mỗi nước; góp phần duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục khoa học - kỹ thuật từng bước phát triển tích cực. Trên nền tảng quan hệ chính trị tốt đẹp, các lĩnh vực hợp tác song phương Việt Nam - Campuchia những năm gần đây tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ chế hợp tác song phương và đa phương được coi trọng và thúc đẩy hiệu quả như: Hội nghị xúc tiến đầu tư và thương mại vào Campuchia; Hội chợ thương mại Việt Nam - Campuchia; Hội nghị hợp tác thương mại biên giới Việt Nam - Campuchia; giao lưu, hợp tác giữa các bộ, ngành, đoàn thể địa phương hai nước... Đặc biệt là các cơ chế hợp tác như Chương trình Hợp tác Kinh tế Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Ủy hội sông Mê Công quốc tế (MRC), Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mê Công (ACMECS). Hợp tác khu vực Tam giác phát triển Campuchia – Lào - Việt Nam là cơ chế hợp tác quan trọng duy trì sự ổn định về an ninh chính trị, an toàn xã hội tại biên giới ba nước. Thông qua các cơ chế phối hợp, nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước đã được triển khai và đạt được những kết quả quan trọng. Hai bên chủ động, tích cực triển khai các hiệp định giữa hai Chính phủ và thỏa thuận tại các kỳ họp Ủy ban hỗn hợp về kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, kịp thời trao đổi tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy hợp tác.

Nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác kinh tế, Chính phủ hai nước thỏa thuận việc xây dựng và thực hiện cơ chế mở cửa thông thoáng cho các hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, du lịch liên quốc gia, hợp tác lao động, thủ tục hải quan, xuất, nhập cảnh và các quy chế về thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào thị trường của nhau. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế và chính sách ưu đãi các doanh nghiệp về đào tạo lao động, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng sản xuất, kinh doanh, thực hiện xúc tiến đầu tư, thương mại, tổ chức các diễn đàn, tham gia hội chợ, xúc tiến thị trường tại Campuchia và Việt Nam; đa dạng hóa các hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia và ngược lại.

Trong hợp tác đầu tư, Việt Nam có 188 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Campuchia với tổng số vốn đăng ký 2,88 tỷ USD, đứng thứ 5 trong số các nước đầu tư vào Campuchia, chủ yếu là các lĩnh vực nông nghiệp (chiếm gần 70% tổng vốn đăng ký); tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông; các dự án còn lại nằm trong các lĩnh vực hàng không, khoáng sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, vận tải kho bãi, y tế, xây dựng, du lịch - khách sạn, bất động sản và các dịch vụ khác. Sự quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi của Chính phủ hai nước là một trong những cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế, đầu tư giữa hai nước có bước phát triển mạnh trong những năm qua. Hai bên cũng tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như: Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam - Campuchia, Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam - Campuchia nhằm thúc đẩy hợp tác đầu tư giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả. Nhờ đó, hoạt động đầu tư của Việt Nam vào Campuchia có sự chuyển biến mạnh mẽ với vai trò quan trọng của các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp lớn.

Về thương mại, Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây là một thuận lợi lớn thúc đẩy sự phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là hoạt động thương mại của hai nước. Hai bên quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế quan cho hàng hóa xuất xứ từ mỗi nước; coi trọng hợp tác thương mại biên giới; hỗ trợ giúp đỡ địa phương giáp biên giới hai nước đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thương mại. Thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam - Campuchia giai đoạn 2019 - 2020 đã cam kết những ưu đãi về thuế suất thuế nhập khẩu 0% đối với các mặt hàng có xuất xứ từ hai nước. Cụ thể, phía Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi 0% đối với 26 mặt hàng khi nhập khẩu vào thị trường Campuchia. Đây là những ưu đãi đặc biệt mà Campuchia chỉ dành cho Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam cũng dành ưu đãi đặc biệt thuế suất nhập khẩu 0% cho 32 mặt hàng của Campuchia, phần lớn là nông sản.

Hoạt động hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Campuchia được xúc tiến tích cực bằng nhiều hoạt động của diễn đàn doanh nghiệp, hội chợ triển lãm hàng không Việt Nam tại Campuchia, mở khu kinh tế cửa khẩu; xây dựng hành lang pháp lý, kết cấu hạ tầng phục vụ thương mại ngày càng gia tăng giữa hai bên. Hai năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do đại dịch COVID-19, nhưng quan hệ thương mại giữa hai nước có sự tăng trưởng đột phá: tổng kim ngạch hai chiều năm 2020 đạt 5,32 tỷ USD, năm 2021, đạt 9,53 tỷ USD, tăng gần 80% so với năm 2020. Việt Nam luôn sẵn sàng chào đón hàng hóa của Campuchia và trên thực tế trong những năm gần đây, xuất khẩu nông sản của Campuchia, đặc biệt là mặt hàng gạo (hơn 2 triệu tấn), hạt điều, hồ tiêu, cao su… có mức gia tăng cao.

Hợp tác giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là lĩnh vực được hai bên đặc biệt quan tâm, coi đây là vấn đề trọng yếu có tầm chiến lược, góp phần tích cực củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị, lâu dài giữa nhân dân hai nước vì mục tiêu phát triển của mỗi nước. Hằng năm, Việt Nam dành cho Campuchia hàng trăm suất học bổng đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Campuchia cũng dành cho phía Việt Nam 35 suất học bổng, bao gồm 15 suất học bổng đại học và sau đại học, 20 suất học bổng đào tạo ngôn ngữ, văn hóa Khơ-me trong vòng hai năm. Hiện có khoảng 200 sinh viên Việt Nam đang học tập tại Campuchia. Ngoài ra, hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực dạy nghề thông qua việc tổ chức các hoạt động phát triển nguồn nhân lực. Đây thực sự là nguồn bổ sung nhân lực rất quan trọng, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Hợp tác giữa các bộ, ban, ngành, các ủy ban của Quốc hội, đoàn thể và tổ chức nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào thực chất hơn. Hai bên trao đổi các đoàn, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên giới, tiếp tục mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc y tế, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn tại các khu vực biên giới hai nước. (Trích phát biểu của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Vương quốc Campuchia Nguyễn Huy Tăng)

3. Kết luận

Năm 2022, kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Cam-pu-chia, hai nước tổ chức nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi trên khắp mọi miền đất nước. Hai quốc gia tiếp tục khẳng định quyết tâm phấn đấu, kế thừa và vun đắp tình đoàn kết, mối quan hệ truyền thống, hữu nghị, gắn bó và sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia ngày càng phát triển lên tầm cao mới, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Chúng ta hy vọng, mối quan hệ này sẽ là nền tảng cho sự phát huy lâu dài mối quan hệ láng giềng, cùng nhau hợp tác và phát triển để hướng tới một ASEAN đoàn kết và phát triển.